Tên di sản : Nhà cổ gia đình ông Nguyễn Đức Nho
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Di tích kiến trúc nghệ thuật
Sô quyết định : Số 69/QĐ-CT
Giới thiệu
Nhà được xây dựng theo hướng Nam chếch đông 30° trên khu đất rộng với tổng diện tích 553m2.
Phía Bắc giáp thửa 10/628.
Phía Nam giáp thửa 40/580.
Phía Đông giáp đường liên thôn.
Phía Tây giáp thửa 38/480.
Cấu trúc ngôi nhà:
Ngôi nhà cổ gồm 5 gian được đặt trên mảnh đất bằng phẳng, không gian rộng thoáng. Các gian là một phần không gian được giới hạn bởi phần mái, hai mặt trước và sau nhà, hai vì kèo ở hai bên. Trên mặt bằng là diện tích nền giới hạn bởi hai hàng chân cột của hai vì kèo, hai xà chắn trước và sau. Ngôi nhà dân gian truyền thống này dường như chung một sơ đồ, ở đây ngôi nhà của gia đình Ông Nguyễn Đức Nho gồm 5 gian: Gian giữa là nơi đặt bàn thờ tổ tiên và là nơi tiếp khách, hai gian hai bên có kê giường, phản dành cho những người đàn ông trong nhà và khách nam. Còn hai gian đều được ngăn cách bởi ba gian giữa bằng hai vì thuận. Gia đình này cả hai gian buồng đều giành riêng cho phụ nữ trong nhà sinh hoạt.
Nền nhà có chiều dài (12,40m), chiều rộng 7,7m với tổng diện tích 95,48m2. Tính từ Đông sang Tây tường hồi đốc đông dày 0,3m.
Tường hồi đầu tây dày 0,3m.
Cấu trúc ngang nhà có kích thước khác nhau như từ giọt nước mái trước đến từng cột hiên trước là: 0,58m; Từ tim cột hiên đến tim cột quân: 1m2; Từ tim cột quân đến tim cột cái: 1m3; Từ tim cột cái đến tim cột cái: 1m78; Từ cột cái đến cột quân: 1m3; Từ cột quân đến cột hiên sau: 0,85m; Cột cái có chiều cao: 3m62; Đường kính cột cái: 65cm; Cột hiên có chiều cao: 2m21; Cột quân trước có chiều cao 3m; Kích thước chân tảng cột hiên = 0,36 x 0,36; Kích thước chân tảng cột quân = 0,38 x 0,38; Kích thước chân tảng cột cái = 0,38 x 0,38 (chiều cao = 0,17cm).
Như vậy, tổng cộng ngôi nhà 5 gian có 6 hàng cột với tổng số 28 cột đứng trên hệ thống chân tảng vừa nêu trên. Các cột trong ngôi nhà cổ dân gian truyền thống này đường kính của cột cũng có tỷ lệ tương ứng nên hình dáng của cột cũng có quy định rõ ràng như chúng ta vừa trình bày ở trên. Các cột ở đây đa phần ngọn cột nhỏ, gần về phía thân cột phình to ra, chân cột thót lại, các xà, câu đầu cũng có sự tương ứng giữa các xà với nhau, giữa xà với nhau, giữa xà và cột, giữa câu đầu với cột.
Kết cấu vì kèo:
Cấu trúc mặt bằng theo chiều dọc từ đông sang tây và ngược lại. Từ tây sang đông theo khảo sát thực tế ngôi nhà 5 gian này có kết cấu kiến trúc tương đối cân đối, đối xứng nhau gồm gian đầu đối xứng với gian cuối. Vì 1 đối xứng với vì 6, vì 2 đối xứng với vì 5, vì 3 đối xứng với vì 2.
Vì 1 và vì 6 là hai vì làm hoàn chỉnh gồm kết cấu kiến trúc theo hệ thống kẻ chuyền gồm 2 cột cái, 2 cột quân và không có cột hiên.
Về đường nét trên vì kèo chỉ bào trơn đóng bén, không soi gờ chỉ hoặc không trang trí hoa văn gì.
Đây là ngôi nhà được kết cấu 5 gian 6 vì kèo được đối xứng qua gian giữa các cặp vì kèo đối xứng nhau về kết cấu dọc ngôi nhà. Nhìn từ chính diện một vì kèo ta thấy từ cột hiên trước đến cột quân thực chất là một liên kết với các con rường nên mang hình thức kẻ hiên. Kẻ hiên này trực tiếp làm nhiệm vụ đỡ tàu của kết cấu mái chạy suốt chiều dài giọt tranh.
Phần nối giữa cột quân với cột hiên ở phía trong hiên là hệ thống chồng giường con so, liên tiếp là các con rường chồng lên nhau. Con rường thứ nhất được nằm trên xà ngang ăn mộng vào đầu trục đứng hình búp sen, liên tiếp là con rường thứ hai được nằm trên một đấu trụ có mộng thắt mang cá. Tiếp nữa là bát đấu đỡ con rường thứ ba tất cả lòng mái hiên này có 9 con rường được kết cấu bởi các xà lòng đỡ các con ngang và đỡ toàn bộ hệ thống hoành tải, rui, mè, mái ngói hiên trước.
Hai vì thuận hiên trước được kết cấu theo kiểu chồng rường. Hai vì hiên ở giữa (vì 3, 4) kẻ dài cong chạy từ đầu cột hiên đến cái. Các hoành được đặt thông qua các lá dong - Hoành hiên đều được làm bằng gỗ hình vuông được bào soi ba mặt, riêng xà cò hiên được soi cầu kỳ, đầu kẻ bẩy hiên được nghệ nhân trang trí hình hoa cúc cách điện, đặt ở nơi thoáng mát. Bức trang trí trên vào thuận hiên những hình cúc hoa dây, chim, thú nghệ nhân ở đây thể hiện được ý nguyện con người nơi đây sống trong khung cảnh thoải mái sau những thời gian lao động mệt nhặc.
Hệ thống xà cò hiên được soi cầu kỳ ở hai vì hồi hiên từ cột cái đến cột cái ở nóc được kết cấu kiểu con so chồng rường giá chiêng. Từ câu đầu xuống đến xà lòng ở hai vì thuận được kết cấu dừng ván và trang trí bức xiên hoa được dừng đó lụa dọc gồm 9 đố dọc được soi chạm tinh vi từ xà lòng xuống đến quá giang đóng khung bản lùa ván, soi chỉ, các xà lòng được soi chỉ sống dừa nhất két, từ quá giang xuống đến ngạch, xung quanh được dựng không bạo, khung nổ, được soi ghép cầu kỳ và dừng ván gỗ. Phía sau từ cột cái đến cột quân ở hai vì hồi được thể hiện từ cột hiên, cột cái ở 2 vì thuận kết cấu kẻ chuyền đến phần cột cái ở vì (3, 4, 5) hệ thống kẻ chuyền giá chiêng cột cái thân nhà kèo cầu quá giang đỡ trụ. Từ (vì 2, 3, 4, 5) từ cột cái đến thượng lương nhà được kết cấu kiểu con so chồng rường giá chiêng trên cùng là các con rường chồng lên nhau nhưng tỷ lệ ngắn và thu hẹp lại dần theo kết cấu mài. Nó được đỡ bằng các đấu trụ vuông ngắn. Đầu con rường thứ nhất trên vì nóc được ăn mộng vào đầu cột lớn, đầu con rường thứ hai được ăn mộng vào đầu trục đứng. Để nối hai trụ đứng này là một con rường dài nằm ngang ăn mộng vào trụ đứng đỡ hai hoành tải của cả mái trước và sau. Trên cùng là đấu bát đỡ thượng lương. Điểm cuối cùng của cấu trúc vì kèo. Như vậy các con rường ngoài chức năng làm nhiệm vụ đỡ các hoành tải nó còn có yếu tố chính trong kết cấu để tạo nên vì kèo của ngôi nhà. Trên các con rường này được các nghệ nhân thời bấy giờ tạo tác hoa văn trang trí những bông hoa cúc cách điệu chạm khắc chữ thọ khéo léo trông mềm mại, uyển chuyển tạo nét đẹp cho ngôi nhà.
Phía trước từ cột cái đến tàu nước là hoành gỗ, từ cột cái đến thượng lương trước, từ thượng lương trước đến hiên sau, đòn tay, rui, mè bằng luồng. Xà dọc hiên trước gồm hoành trên, xà cò dưới, ở cột cái trước hoành trên, xà thượng, xà hạ, phía sau gồm xà hoành, xà thượng, xà hạ (ở cột cái) còn ở cột quân xà trung sau, hoành, xà thượng, xà hạ sau, cột hiên sau có hoành hiên xà hạ.
Riêng phía trước suốt ba gian được đặt bộ của bức bàn mỗi chuồng cửa gồm 4 cánh, bậc cửa được làm bằng gỗ, ngưỡng cửa bằng gỗ, nhưng đã bị gia đình tháo gỡ thay thế bằng những viên gạch xếp đứng, chiều cao cửa bằng 1m71; phía trong được chốt bằng chất gỗ mở ra vào rất khít.
Phía trước suốt ba gian có hệ thống xiên hoa, phía trên dừng ván cao 0,50m, phía dưới có con tiện vuông cao 0,20m và có đồ dọc cao 0,70m, cuối cùng là phần đế diềm xiên hoa cao 0,1m.
Từ xà đại đến khung bạo nổ cửa bức bàn là 1m71; ngạch, ngưỡng cửa trên cao 0,4m. Phía dưới cột cài sau cũng được kết cấu xà dọc kép có ván nong phía dưới còn có xà hạ ở cột quân sau cũng được kết cấu hệ thống xà kép trên dưới gồm xà hoành (mào hoành), ván nong xà con, xà hạ phần ván mong được soi chạm và khắc chữ theo kiểu bức xiên hoa. Xà dọc hiên sau cũng được kết cấu xà kép, hoành trên, ván giữa, xà dưới, các xà dọc, ngang được cấu trúc theo kiểu soi cạnh sống dừa theo hình bầu dục cắt ngang. Kiểu mẹ tròn con vuông (có nghĩa cột tròn, xà hoành vuông) các mặt xà hai bên được soi chỉ kép song song đối xứng nhưng xà cái có tiết diện 0,160 - 0,165m, dọc 0,50 - 0,160m. Hệ thống xà ngang (có tiết diện rộng hơn, to hơn cao 0,90cm, rộng 1,60m).
Những ngôi nhà dân gian truyền thống xung quanh chúng ta chỉ dùng mộng, mà không cần dùng đến đinh sắt nào thì không thể nghĩ rằng trình độ kỹ thuật của cha ông chúng ta còn quá xơ xài mà phải thấy được sự sáng tạo của kiểu mộng vừa nêu ở trên.
Qua khảo sát một số ngôi nhà truyền thống quanh vùng cho thấy từ kiểm mộng trơn, mộng hở và ngôi nhà này các nghệ nhân đã thể hiện kiểu mộng có mang thắt và cho rằng đây là biển kiểu mộng hoàn thiện nhất. Kiểu mộng này khi các cấu kiện lắp ráp lại với nhau không thể nào sai lệch được và tháo ra dễ dàng.
Nhờ có kiểu mộng này mà bộ sườn của ngôi nhà cổ truyền thống của chúng ta rất chắc chắn.
Kỹ thuật lắp ghép của ngôi nhà truyền thống này cho chúng ta thấy đây là quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Ngôi nhà này thể hiện sự lắp ráp kiểu mộng phức tạp tinh tế hơn so với những ngôi nhà cổ ở vùng khác phải chăng ở đây chịu sự ảnh hưởng của gió biển vào. Những nghệ nhân với trình độ tư duy ở mức độ thô sơ thời ấy đã có thể làm được với kết cấu kiến trúc của ngôi nhà này đòi hỏi phải có dụng cụ chuyên môn như đục, tràng, cưa, chỉ riêng về mặt này đòi hỏi một quá trình phải lâu dài từ có công cụ đến hoàn thiện các kiểu mộng phức tạp, tinh tế ở ngôi nhà truyền thống này mà không kém phần chắc chắn.
Do vậy mà nhìn vào kỹ thuật lắp ghép ở ngôi nhà dân gian, truyền thống này, chúng ta cũng có thể thấy được trình độ kỹ thuật và tư duy của những nghệ nhân ở vùng quê này ở trình độ nào?
Phần mái ngói được lợp lớp ngói mũi phẳng phiu, hai đầu nóc được đắp bát đấu, bờ giải được đắp công phu.
Phối cảnh trong khuôn viên ngôi nhà:
Hiện nay, nhà bếp hầu như không đặt trong nhà chính mà bếp là một bộ phận riêng. Nhưng mối quan hệ giữa bếp và nhà chính được biểu hiện rất khăng khít.
Nhà bếp tách ra thành một nhà phụ, mái của nó gắn liền với mái nhà chính, nhà phụ này còn gọi là nhà ngang. Nhà này chia làm hai nửa, một bên giành riêng cho bếp. Bên trên bếp có dựa treo (nhân dân địa phương còn gọi là gác bếp) để sấy khô các đồ nan, lạt và các loại hạt giống. Từ trước kia nhà ngang gia đình này còn một phần để cối xay lúa, giã gạo.
Sân được đặt trước nhà có chiều dài, rộng là nơi gia đình dùng để phơi phóng, làm các nghề phụ. Ngoài tác dụng kinh tế, sân còn là nơi tụ họp gia đình mỗi khi có tang ma, cưới xin. Hoặc những đêm trăng cả gia đình trải chiếu ra ngồi giải trí sau một ngày lao động vất vả.
Vườn không rộng lắm, trong vườn gia đình trồng vài luống rau xanh, cây ăn quả. Khuôn viên của ngôi nhà này xung quanh đều được rào cẩn thận bằng hàng rào dâm bụt, cổng ra vào ngày này gia đình thay thế gỗ bằng cổng xây có cửa sắt ra vào bức tường hoa.
Trên đây là toàn bộ kết cấu của công trình nhưng để đạt tới hình thức thẩm mỹ phù hợp với sinh hoạt và chức năng của một gia đình, phù hợp với ngôi nhà mang kiến trúc dân gian truyền thống thời bấy giờ. Đáp ứng với nhu cầu ở, tiếp khách của một gia đình, chủ nhân ngôi nhà đã chọn những nghệ nhân thời xưa đã cần đến sự hợp đồng của điều khác. Một hình thức nghệ nhân trang trí một ngôi nhà ở dân gian day mộng chạm khắc được thể hiện ở các con ngang của bộ phận kiến trúc, bát đấn ở hầu như các vì kẻ hiên ở 2 và thuận trang trí mỏng chạm chắc được đặt ở nơi thoáng mát, những con vật được chạm khắc sống động, hình lá cúc cách điệu theo các cặp đối xứng nhau. Tất cả những hoạ tiết trang trí làm tăng thêm tính uyển chuyển mềm mại của ngôi nhà. Thể hiện nghệ thuật trang trí mang phong cách nhà ở dân gian truyền thống cuối thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX.
Về niên đại theo thực tế kiến trúc có thể ngôi nhà xây dựng ở thế XVIII, XIX mang phong cách kiến trúc nhà ở dân gian ngôi nhà này 3 gian giữa nơi tiếp khách, thờ tổ tiên được chạm khắc mô típ hoa văn lấy gốc từ tứ quý được hình tượng hóa thành tứ linh, hình thức hoa lá. Biểu tượng cho lá cúc cánh diện như vân mây ở các trụ.
Đây là công trình kiến trúc cổ dân gian truyền thống còn tương đối nguyên vẹn trên đất Thanh Hoá nói chung và Hoằng Lộc, Hoằng Hoá nói riêng còn lưu giữ trên đất Thanh Hoá.
Các hiện vật trong di tích:
Án thư bằng gỗ: Có chiều dài = 1,37m; rộng = 0,76m.
Long ngai bằng gỗ: Chiều cao = 0,80m; Rộng = 0,46m; Dài = 0,53m.
Mâm bồng bằng gỗ: Đường kính = 44m; Cao = 0,27m.
Bát hương gốm: Đường kính = 2,5m; Cao = 0,2m.